“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Có những con người ứng thiên mệnh sinh ra để sáng tạo nên lịch sử. Lý Thường Kiệt chính là một trong hai người như thế. Dù Đại Việt có vô số danh tướng vua quan hào kiệt, nhưng những gì Lý Thường Kiệt đã làm cho dân tộc này là mở ra một thời đại độc lập vững chắc làm tiền đề cho nghìn năm độc lập tiếp theo. Không có chiến công của ông cùng vô số anh linh tướng sĩ tử thủ Như Nguyệt giang, ắt hẳn sẽ không có một Đại Việt đủ sức quật ngã Nguyên Mông, sẽ không có một Đại Việt có đủ sức mạnh trải dài xuống phương Nam thành kế rễ sâu gốc vững, hoàn toàn làm chủ mảnh đất xinh đẹp này.
Nhất chiến định thiên hạ, định luôn cả cục diện hòa bình vững mạnh trăm năm sau đó, Lý Thường Kiệt quả xứng là đệ nhất thần tướng nghìn năm có một của dân tộc Việt Nam ta.
Vị tướng quân với huyền thoại Nam quốc sơn hà lừng danh này và tài cầm quân cùng đức độ trị dân phò vua của ông nghìn năm qua vẫn luôn là tấm gương sáng nhất cho hậu nhân noi theo.
Thanh niên ôm hận lớn, khuất thân nhập cấm cung
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng khởi đầu sự nghiệp Lý Thường Kiệt chỉ là một viên võ quan nhỏ “kỵ mã hiệu úy”, nhưng Lý Thường Kiệt đã chấp nhận cơ hội do vua ban cho, chịu tự hoạn để vào cung cấm làm chức Hoàng môn chi hậu (hoạn quan). Đến nay vẫn không ai có thể lý giải vì sao Lý Thường Kiệt lúc đó vừa mới hơn 20 tuổi, đã có gia đình, lại là con nhà dòng tướng lại chịu khuất thân vào cung làm hoạn quan? Đây quả là một bí ẩn vô cùng lớn chưa hề được giải khai trong lịch sử.
Xét lại câu nói đầy chí khí của ông về một ước mong sự nghiệp vĩ đại lúc nhỏ và các công nghiệp hiển hách ông lập nên sau này, ta có thể thấy rằng ước nguyện “kiến công lập nghiệp” của ông mạnh đến nỗi ông có thể từ bỏ mọi thứ để đạt được điều đó. Nhiều sử gia vẫn cho rằng Lý Thường Kiệt tiến nhập cấm cung là muốn gần Hoàng đế để thăng quan nhanh chóng. Tuy nhiên bản thân người viết lại không ủng hộ thuyết trên cho rằng Lý Thường Kiệt vào cung làm hoạn quan để thăng tiến. Vì xét trình độ kiến thức, võ công của ông thuộc vào hàng hiếm có thời đó, lại thêm bản thân đang làm quan, bố vợ cũng làm quan, gia tộc quyền quý danh giá, con đường hoạn lộ của ông không cần thiết phải khuất thân vào đại nội làm một hoạn quan. Vả lại Lý Thường Kiệt sùng bái Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh là hai tướng quân đánh Hung Nô được phong hầu nổi tiếng. Thời đại của hai vị tướng đó là nhà Hán, lúc đó không ai cho rằng việc vào cung làm thái giám rồi thành quan to là vinh quang hết. Hơn nữa, khi xét trong cả hai triết thuyết lớn là Phật và Nho thời ấy thì đều không cho phép một người vì danh vọng mà tự tàn hủy bản thân mình, nhất là Nho giáo. Vì thế mà người viết mạo muội cho rằng Lý Thường Kiệt quả thực có 1 lý do lớn và vô cùng khuất tất mới phải vào triều làm hoạn quan.
Điều này đã được lý giải qua nghiên cứu và trình bày trong tiểu thuyết lịch sử Nam quốc sơn hà của tác giả Trần Đại Sỹ. Qua các tư liệu hiếm hoi còn sót lại trong các thư tịch ở Trung Quốc, các Thần phả và những tư liệu của các gia tộc tướng lãnh thời đó, ông kết luận rằng Lý Thường Kiệt chính là bị hãm hại mà phải vào triều làm hoạn quan. Người hại Lý Thường Kiệt chính là Thượng Dương thái hậu, người yêu cũ và cũng là vị hoàng hậu uy quyền, nên Lý Thường Kiệt đành phải ôm hận cả đời mà làm hoạn quan. Sau này chính tay Lý Thường Kiệt khi nắm binh quyền đã trợ giúp cho Ỷ Lan thái hậu thực hiện một cuộc thanh trừng chớp nhoáng mà đẫm máu trong nội cung, giết chết Thượng Dương thái hậu cùng 76 cung nữ. Chúng ta có thể cảm thấy đây hoàn toàn không phải là một chuyện trùng hợp. Chỉ có thâm cừu đại hận mới có thể khiến người ta ra tay nhanh chóng mà gọn ghẽ như vậy. Cũng là minh chứng cho câu nói “quả báo nhãn tiền”. Quả thật là thương tâm thay.
Ôm mối hận lớn trong lòng vào cung làm thái giám để truy ra kẻ đã hại mình, và ông Trời có mắt đã không phụ lòng Lý Thường Kiệt. Một thời gian không lâu sau đó các cơ hội liên tiếp đến để ông đón gió trở cờ nhanh chóng leo lên vị trí nắm giữ trọng binh, chấp chưởng quân quyền.
“Năm lên 23 tuổi, là năm Tân Tỵ (1041), niên hiệu Càn phù hữu đạo đời Lý Thái Tông, ông được bổ vào ngạch thị vệ để hầu vua, và sung chức Hoàng môn chỉ hậu. Chức này là một chức hoạn quan.”
(Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Hoàng Xuân Hãn)
“Ông nhiều mưu lược, có tài tướng soái, lúc nhỏ phong tư tuấn nhã, có tiếng khen ra ngoài, được sung làm chức Hoàng Môn Ký Hầu” (trích Việt Điện u linh tập, Lý Tế Xuyên)
Theo thời gian, bằng năng lực của mình, ông lại được theo đúng lộ trình thăng lên những chức vụ quan trọng trong triều đình.
“Ông vào cấm thất chưa được một kỷ (12 năm), tiếng nổi nội đình. Được thăng nhiều lần, lên đến chức Đô tri, ông coi tất cả mọi việc trong cung. (Việt Điện u linh tập). Năm Lý Thánh Tông lên ngôi (1054, ông 36 tuổi), vì đã có công phù dực, ông được thăng chức Bổng hành quân hiệu úy, tức là một chức vũ quan cao cấp. Hàng ngày, ông hầu cận bên vua, hiến việc tốt, can việc xấu, giúp vua hết mọi cách. Vì cần lao giúp rập, nên được cất lên chức Kiểm hiệu thái bảo, tức là một chức tại triều rất cao.”
(Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Hoàng Xuân Hãn)
Lời bàn:
Khi gặp phải những đại nạn trong đời gây tổn hại đến bản thân, cách người ta phản ứng với nó sẽ quyết định tầm vóc sự nghiệp của người ấy về sau. Lý Thường Kiệt chịu khuất thân vào cung cấm làm hoạn quan để rồi mấy chục năm sau nước ta có một vị danh tướng lừng danh. Người xưa hay nói rằng khi trời muốn giao trọng trách cho ai đó thì sẽ làm cho người ấy khổ sở đau đớn rồi mới dùng, trường hợp Lý Thường Kiệt quả là đúng lắm thay.
Nguồn: epochtimesviet.com